lãi suất cao – Kinhtexahoi.net https://kinhtexahoi.net Trang tin tức giải trí Sao Việt Mon, 09 Dec 2024 21:49:54 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/media/2025/08/kinhtexahoi.svg lãi suất cao – Kinhtexahoi.net https://kinhtexahoi.net 32 32 Nền lãi suất cao không ảnh hưởng biên lãi ròng của ngân hàng https://kinhtexahoi.net/nen-lai-suat-cao-khong-anh-huong-bien-lai-rong-cua-ngan-hang/ Tue, 14 Feb 2023 08:23:23 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=7527 Năm 2022, thu nhập lãi thuần của các ngân hàng vẫn tiếp tục gia tăng trong các quý cuối 2022. Theo đó, NIM của các ngân hàng dường như không bị ảnh hưởng vì nền lãi suất cao.]]>

Năm 2022, thu nhập lãi thuần của các ngân hàng vẫn tiếp tục gia tăng trong các quý cuối 2022. Theo đó, NIM của các ngân hàng dường như không bị ảnh hưởng vì nền lãi suất cao.

>> Những điểm nóng tác động triển vọng nhóm ngành cổ phiếu năm 2023

Thu nhập lãi của các ngân hàng nhìn chung vẫn tăng, tuy nhiên các thu nhập khác, đặc biệt đầu tư-chứng khoán suy giảm khi thị trường khó khăn. Ảnh minh họa

Thu nhập lãi của các ngân hàng nhìn chung vẫn tăng, tuy nhiên các thu nhập khác, đặc biệt đầu tư-chứng khoán suy giảm khi thị trường khó khăn. Ảnh minh họa

Lợi nhuận của ngành ngân hàng (xét nhóm 27 ngân hàng niêm yết trên 3 sàn HoSe, HNX, UpCOM) đã chính thức xác nhận đỉnh vào quý 1/2022 với lợi nhuận trước thuế (LNTT) đạt 68 nghìn tỷ; sau đó lợi nhuận giảm dần và đạt mức 54 nghìn tỷ vào quý 4 2022.

Tính chung cả năm, LNTT của 27 ngân hàng đạt 246 nghìn tỷ, tăng 33,5% so với 2021. Đây là động lực lớn giúp bảo toàn lợi nhuận toàn thị trường và duy trì tăng trưởng EPS cao của thị trường Việt Nam.

Theo báo cáo ước tính, quán quân lợi nhuận năm 2022 thuộc về ngân hàng Vietcombank với mức lãi riêng lẻ tăng gần 40%, lên 36.774 tỷ đồng. BIDV đạt LNTT hợp nhất là 23.190 tỷ đồng. VietinBank có đà tăng trưởng có chậm hơn khi LNTT riêng lẻ năm 2022 ước đạt 20.500 tỷ đồng, tăng hơn 20% so với năm trước. Ở nhóm NHTM, á quân sau Vietcombank về lợi nhuận, Techcombank đã lấy lại vị thế khi gặt hái được hơn 25.500 tỷ đồng, tăng 10% so với năm liền trước. MBBank ghi nhận hơn 22.700 tỷ đồng LNTT, tăng tới 28% so với cùng kỳ năm trước và vượt qua VPBank đạt hơn 21.200 tỉ đồng. Một loạt nhà băng khác cũng đã báo LNTT tích cực như ACB với 17.100 tỷ đồng; VIB 10.500 tỷ đồng; HDBank trên 10.500 tỷ đồng, mức cao nhất của ngân hàng này; TPBank 7.800 tỷ đồng, Sacombank 6.339 tỷ đồng tăng tới 44% so với 2021, MSB đạt 5.700 tỷ đồng, LietVietPostBank 5.600 tỷ đồng, OCB 5.000 tỷ đồng…

Tổng thu nhập hoạt động (TOI) của 27 ngân hàng niêm yết cũng chưa có dấu hiệu suy giảm và có xu hướng đi ngang. Điều này cho thấy thu nhập lãi vẫn tăng nhưng các thu nhập khác của ngân hàng đã suy giảm khi thị trường khó khăn.

Vậy nguyên nhân dẫn đến lợi nhuận ngân hàng đạt đỉnh quý 1 là do chi phí vốn giai đoạn đầu 2022 còn thấp, nhưng sau đó lợi nhuận giảm dần đến quý 4 2022, chủ yếu là là do chi phí vốn gia tăng. Có thể thấy rõ điều đó hơn trong mục khoản chi phí hoạt động và chi phí dự phòng của các ngân hàng tiếp tục gia tăng.

Chi phí dự phòng tăng do rủi ro chất lượng tài sản suy giảm khi lãi suất tăng cao, điều này là hợp lý trước các rủi ro kinh tế và thị trường bất động sản.

Dựa trên kết quả kinh doanh đã được công bố của các ngân hàng, chúng tôi cho rằng vào các quý đầu 2023 sẽ tiếp tục tương đối khó khăn với ngành khi áp lực trích lập dự phòng sẽ tiếp tục cao và NIM (biên lãi ròng) khó có thể mở rộng (hoặc có xu hướng thu hẹp).

Nợ xấu của 27 ngân hàng niêm yết ở mức 1,6% cuối năm 2022, đây là mức trung bình của các quý trước đó và chưa có sự gia tăng đáng kể. Do đó chất lượng tài sản đến cuối quý 4/2022 của các ngân hàng vẫn được đánh giá là tương đối tốt.

Về sự chuẩn bị cho những rủi ro tiềm ẩn, tính đến cuối 2022, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của 27 ngân hàng đạt 123% (>100%). Đây là mức bao phủ nợ xấu rất tốt và cho thấy sự sẵn sàng đối phó với khó khăn của ngành trong tương lai (tỷ lệ bao phủ nợ xấu liên tục duy trì trên mức 100% từ quý 4/2022).

Để có góc nhìn rõ hơn về chất lượng tài sản của các ngân hàng, chúng tôi đi vào phân tích nợ xấu mới hình thành trong quý và quá trình xử lý nợ xấu theo quý.

Qua dữ liệu ghi nhận, có thể thấy trong quý 4, nợ xấu mới đã tăng mạnh, thêm hơn 56 nghìn tỷ. Con số này tăng đột biến và lớn hơn nhiều số nợ xấu hình thành trong quý 3/2021 khi nền kinh tế chịu ảnh hưởng bởi lệnh lock down vì Covid-19.

Điều này như đề cập ở trên, do sự chuẩn bị cho những rủi ro tiềm ẩn; bên cạnh đó, còn việc Thông tư 14 hết hiệu lực (từ 30/6/2022), khiến các ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng các khoản nợ được hỗ trợ bởi ảnh hưởng COVID-19, mà nay đã không còn được khoanh, giãn, hoãn, dẫn đến nhảy nhóm nợ. Cùng với đó lưu ý nợ xấu mới có thể đến từ việc lãi suất tăng cao dẫn đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp khó khăn hơn. Và đặc biệt ở quý 4, tác động rung lắc mạnh của thị trường trái phiếu với khó khăn tắc thanh khoản của thị trường bất động sản cũng là nguyên nhân.

>> “Soi” tăng trưởng và chất lượng tài sản của các ngân hàng

Trong bối cảnh thị trường bất động sản chưa có triển vọng được khơi thông dòng vốn và các doanh nghiệp sẽ phải chủ động tái cơ cấu, xử lý, tạo thanh khoản, cũng như thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ còn cần thêm thời gian để thực sự ấm trở lại, ảnh hưởng của trích lập dự phòng rủi ro sẽ tiếp tục “bào” bớt lợi nhuận ngân hàng.

Nói cách khác, từ những dữ liệu trên đây, chúng tôi cho rằng xu hướng nợ nhóm 2 và nợ xấu mới hình thành sẽ tiếp tục cao trong quý 1/2023 và quý 2/2023 khiến áp lực trích lập dự phòng trong 2 quý đầu năm theo chúng tôi đánh giá là vẫn còn lớn và có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngành ngân hàng trong ít nhất 2 quý này.

Với việc các ngân hàng chiếm khoảng hơn 40% tổng giá trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường, lợi nhuận toàn VN-Index có thể bị ảnh hưởng trong quý 1 và quý 2 năm 2023 so với nền cao của năm 2022. Và việc này có thể khiến chỉ số P/E forward có thể tăng trong tương lai.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>
Giải bài toán vốn cho doanh nghiệp https://kinhtexahoi.net/giai-bai-toan-von-cho-doanh-nghiep/ Tue, 14 Feb 2023 08:23:20 +0000 https://www.kinhdoanhkhoinghiep.com/?p=7568 Năm 2023, mặt bằng lãi suất của Việt Nam được đánh giá là vẫn cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp, vì vậy cần đến sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ, ngân hàng và nỗ lực từ chính các doanh nghiệp.]]>

Năm 2023, mặt bằng lãi suất của Việt Nam được đánh giá là vẫn cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp, vì vậy cần đến sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ, ngân hàng và nỗ lực từ chính các doanh nghiệp.

>> Fed tăng lãi suất và hàm ý chính sách với Việt Nam

Mặt bằng lãi suất cao

Theo TS. Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế đánh giá, thách thức lớn nhất của Việt Nam trong năm 2023 là các tác động của kinh tế thế giới, do nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn. Vì vậy, những vấn đề như suy thoái, lạm phát, hay các biến động chính trị đều ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu Việt Nam – một trong những trụ cột tăng trưởng quan trọng.

Năm 2023, việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sẽ vẫn có những khó khăn nhất định

Năm 2023, việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sẽ vẫn có những khó khăn nhất định

Từ năm 2022, các thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, tín dụng ngân hàng cũng như thị trường bất động sản, chứng khoán của chúng ta đã gặp nhiều khó khăn. Việc lành mạnh hóa các thị trường này cũng đang là thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2023.

“Đặc biệt, suốt hai năm 2020-2021, cộng đồng doanh nghiệp đã chịu tác động ở mọi khía cạnh bởi dịch Covid – 19, từ cung đến cầu và gần như đại bộ phận các doanh nghiệp phải đối mặt với những khó khăn chưa có tiền lệ. Do đó, năm 2022 Chính phủ, Quốc hội đã có một gói về phục hồi và phát triển kinh tế xã hội thực hiện trong hai năm 2022 – 2023. Nhưng từ đó cũng dẫn đến việc có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp của Việt Nam đã chuyển sang trạng thái lệ thuộc vào sự hỗ trợ, mà không đánh giá xem xét nội tại bản thân các doanh nghiệp ra sao”, TS. Vũ Đình Ánh nói.

Nhìn từ góc độ ngân hàng, ông Đào Gia Hưng, Phó Giám đốc khối khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ VPBank cho biết, trong năm 2023, việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) sẽ vẫn có những khó khăn nhất định, xuất phát từ hai yếu tố đó là: Thứ nhất, thị trường sẽ tiếp tục hướng đến câu chuyện về mặt lãi suất, lạm phát và chính sách room tín dụng.

Thứ hai, là khó khăn nội tại của cộng đồng doanh nghiệp như thiếu tài sản thế chấp, chưa có sự chuẩn chỉ về mặt quản trị, điều hành, quy mô nhỏ,… Đây đều là những yếu tố gây ra khó khăn cho việc tiếp cận vốn của các DNVVN.

Dự báo về lãi suất, ông Hưng nhìn nhận điều này tương đối khó. Chúng ta cần căn cứ vào tình hình nội tại, những diễn biến trong quá khứ, nhất là của năm 2022 để phác thảo ra bức tranh lãi suất năm 2023, để nhìn nhận rằng mặt bằng lãi suất trong năm nay sẽ tiếp tục cao và chưa có cơ hội giảm. Có thể sẽ vẫn tăng, nhưng tăng ít hơn so với quá khứ hoặc giữ nguyên và tình hình lãi suất toàn cầu cũng tương tự vậy.

“Một yếu tố quan trọng nữa là tình hình nội tại của Việt Nam, sự quyết liệt của Chính phủ trong huy động toàn bộ các lực lượng, kể cả hệ thống ngân hàng, các kênh huy động vốn của nền kinh tế và cả hệ thống doanh nghiệp, làm sao để hạ được mặt bằng lãi suất, giúp doanh nghiệp dễ thở hơn, dễ tiếp cận hơn với nguồn vốn hơn”, ông Hưng nhấn mạnh.

>> Doanh nghiệp tiếp cận vốn thông minh

Nỗ lực từ phía doanh nghiệp

Về mặt giải pháp, vị đại diện ngân hàng VPBank cũng nêu, doanh nghiệp khó khăn về tiếp cận nguồn vốn cần đi đúng ngành nghề, lĩnh vực cốt lõi của mình và phải minh bạch các số liệu tài chính, tình hình hoạt động càng nhiều càng tốt. Đồng thời nên có sự lựa chọn các sản phẩm đa dạng khác nhau của các ngân hàng, trong bối cảnh lãi suất tăng cao, phía doanh nghiệp nên có sự tính toán cẩn trọng về dòng tiền trong tương lai sau khi vay được vốn. Nguồn vốn đã là một trở ngại, thì sau khi vay được vốn, việc sử dụng càng phải cẩn trọng, thông minh.

Các doanh nghiệp, cần phải giữ một mối quan hệ bền vững, lâu dài với hệ thống ngân hàng

Các doanh nghiệp, cần phải giữ một mối quan hệ bền vững, lâu dài với hệ thống ngân hàng. Ảnh minh họa

Đối với ngân hàng cũng sẽ có sự chuẩn bị cho câu chuyện này, trước hết là luôn tìm tòi các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế, với những đặc điểm mang tính chất ưu đãi hơn so với thị trường để cung ứng ra nền kinh tế. Hay chuẩn bị thêm các sản phẩm đa dạng khác nhau, hướng tới câu chuyện thực hiện số hóa cho cộng đồng doanh nghiệp. Số hóa là vấn đề chúng ta phải làm bền bỉ, có sự đầu tư từ trước.

Ngoài ra, là chuẩn bị nguồn nhân lực, chuyên viên của ngân hàng sẽ tiếp tục thiện chiến hơn trong việc phục vụ, đánh giá nhu cầu của doanh nghiệp, thận trọng hơn nhưng cũng phải hỗ trợ hơn.

Trao đổi với phóng viên, TS. Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội DNNVV TP. Hà Nội chia sẻ, trong năm 2023, việc tiếp cận các nguồn vốn với lãi suất hợp lý và có sự điều chỉnh, hay điều hành vĩ mô của Chính phủ, Quốc Hội không hẳn là khó khăn, mà quan trọng là điều kiện của các doanh nghiệp có thể đáp ứng về mặt thủ tục đối với hệ thống ngân hàng đang còn rất nhiều mặt hạn chế.

Các doanh nghiệp, cần phải giữ một mối quan hệ bền vững, lâu dài với hệ thống ngân hàng. Còn phía ngân hàng cũng luôn mong muốn tìm kiếm người dân, doanh nghiệp có tín dụng minh bạch, sử dụng đúng mục đích và có quan hệ đối với hệ thống ngân hàng trong một quá trình lâu dài.

Ông Mạc Quốc Anh cho biết, với điều kiện thực tế hiện nay, căn cứ vào rất nhiều yếu tố trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, việc điều chỉnh tăng hay giảm lãi suất của Việt Nam còn lệ thuộc nhiều vào tài chính khu vực và thế giới. Bản thân các doanh nghiệp, nhất là DNNVV cần có sự điều chỉnh, cắt giảm nguồn liên quan đến bộ máy quản trị, những chi phí không hợp lý và phải trích lập dự phòng rủi ro, để có nhiều điều kiện đáp ứng cho hệ thống ngân hàng giải ngân vốn.

“Từ phía Hiệp hội, chúng tôi chắc chắn sẽ phải chia nhóm các ngành lĩnh vực đang gặp khó khăn, từ sản xuất, thương mại đến dịch vụ để có chương trình hỗ trợ trực tiếp, bằng cách mời gọi các hệ thống ngân hàng Nhà nước đến tư nhân, các công ty chứng khoán đến tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp cả về thủ tục, hồ sơ, đào tạo nâng cao năng lực cho các cán bộ làm tài chính trong hệ thống các doanh nghiệp.

Cùng với đó, liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp FDI đóng trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh thành, để kéo thêm nhiều dự án, các nhà đầu tư, kết nối họ sử dụng các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam”, TS. Mạc Quốc Anh nói.

Chia sẻ quan điểm của mình, TS. Vũ Đình Ánh phân tích, các doanh nghiệp có rất nhiều việc phải làm. Họ là những người lính tiên phong trên mặt trận kinh tế, vì vậy luôn phải đối mặt với những biến động, các yếu tố tác động tiêu cực từ cả phía thị trường quốc tế cũng như trong nước.

Vấn đề đầu tiên là các doanh nghiệp phải luôn luôn có sự chủ động trong phương án sản xuất kinh doanh, trong mọi trường hợp kể cả khi thuận lợi hay khó khăn. Vấn đề thứ hai là với bản thân các doanh nghiệp, phải hết sức tăng cường tính chủ động, giảm bớt sự trông chờ vào hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, của Chính phủ.

Vấn đề thứ ba là khi doanh nghiệp đánh giá tình hình, đối mặt với khó khăn, cần chú ý đến các nguyên nhân chủ quan hay khách quan. Nếu là nguyên nhân khách quan có thể đề xuất, kiến nghị, nhưng nếu là nguyên nhân chủ quan thì bản thân các doanh nghiệp phải tự mình điều chỉnh.

[wpcc-script language=”javascript” src=”https://diendandoanhnghiep.vn/js/raty/jquery.raty.js”]

Đánh giá của bạn:

[wpcc-script]

]]>